3.4. Biến chứng:
3.4.1.Biến chứng sớm:
- Sưng và tràn dịch khớp gối là biến chứng thường gặp nhất trong giai đoạn đầu sau mổ. Có 6 trường hợp tràn dịch gối, chọc hút ra 30- 50ml máu tụ, trong đó 4 trường hợp trở về bình thường sau 1-2 tuần, một trường hợp tràn dịch tái phát 2 lần và trở về bình thường vào tuần thứ 3. Một trường hợp tái phát 3 lần, dịch đục vàng sậm, cấy không có vi trùng mọc, mổ nội soi rửa khớp và dẫn lưu tưới rửa liên tục, khỏi hẳn sau 1 tuần.
- Không lành vết mổ: 02 ca. Vết mổ ở mâm chày vùng lấy gân và khoan xương. Một trường hợp nhiễm trùng nông lành sau 2 tuần chăm sóc vết thương. Một trường hợp dị ứng chỉ kéo dài 3 tuần, lành sau khi lấy chỉ ra.
- Đau sẹo mổ: đau sẹo mổ xảy ra sau cắt chỉ. Có 11 trường hợp, chiếm 22% đau kéo dài trên 3-4 tuần. Trong đó một trường hợp phải dùng steroid chích tại chỗ mới trị khỏi, 10 trường hợp kia tự khỏi bằng cách day sẹo bằng tay hoặc song siêu âm trong một đến hai tuần.
- Không có trường hợp nhiễm trùng, tổn thương mạch máu hay thần kinh cấp tính nào.
Hình 3.5: Sẹo mổ xấu và đau (Nguồn: bệnh nhân mã số 47)
3.4.2. Biến chứng muộn:
Đơ cứng khớp: có bốn trường hợp mất tầm độ khớp mức độ D trong 3 tháng đầu, chiếm 8%. Trong đó hai trường hợp mất duỗi trên 10 độ và hai trường hợp mất gấp trên 25 độ. Trong hai trường hợp mất duỗi, một trường hợp trở về bình thường sau 4-6 tuần tập, trường hợp còn lại vẫn mất duỗi 6 độ sau một năm.
Một trong hai trường hợp mất gập trên 25 độ phải nội soi cắt mô xơ vào tuần thứ 11, tầm độ khớp phục hồi hoàn toàn sau 3 tuần. Trường hợp còn lại sau 6 tháng tập luyện thì gấp được gần hoàn toàn, hạn chế 16 độ so với chân lành.
- Chấn thương lại: có hai trường hợp chấn thương lại phải phẫu thuật, chiếm 4%. Một trường hợp chấn thương đứt dây chằng chéo trước gối đối bên khi thi đấu vào tháng thứ 11. Một trường hợp chấn thương rách sụn chêm vào tháng thứ 15. Cả hai đều là vận động viên chuyên nghiệp và chấn thương lại sau khi đã trở lại thi đấu.
- Thoái hóa khớp: một trường hợp thoái hóa khớp trung bình, bệnh nhân 52 tuổi, đã có thoái hóa khớp nhẹ trước đó.
- Tê cẳng chân: gặp trong 16 trường hợp, chiếm 33%. Tê vùng trước ngoài cẳng chân, vùng chi phối của nhánh của thần kinh hiển trong. Vùng tê giảm dần diện tích và phục hồi hoàn toàn cảm giác sau 4 đến 6 tháng.
- Không có trường hợp nào rộng đường hầm mâm chày hay lồi cầu trong thời gian theo dõi.
- Không có trường hợp nào đứt tái phát dây chằng chéo trước đã tái tạo.
Thông tin hỏi đáp về => dây chằng chéo đầu gối để hiểu về dây chằng chéo.